VÀI SUY NGHĨ VỀ
CHƯƠNG TR̀NH SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN LỚP 11
ĐẶT TRONG MỐI QUAN HỆ ĐẾN VIỆC
DẠY VÀ HỌC MÔN VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1900 - 1930 Ở
ĐẠI HỌC
Ths.
Huỳnh Thị Lan Phương
1. ĐẶT VẤN
ĐỀ
Văn học Việt
Kiến thức văn
học được trang bị ở bậc phổ thông
(PT) là nền tảng vững chắc cho sinh viên theo ngành
Ngữ văn ở bậc ĐH. Đồng thời,
chương tŕnh ở PT sẽ góp phần định
hướng nội dung cần t́m hiểu, nghiên cứu,
học tập nhằm chuẩn bị cho việc giảng
dạy về sau của sinh viên sư phạm ngay từ khi
c̣n ngồi trên ghế nhà trường ĐH. V́ thế,
nội dung chưong tŕnh ở bậc PT cần có sự
gắn kết, hỗ trợ một cách hợp lư với
chương tŕnh ở bậc ĐH. Nếu có những
điểm chưa nhất quán ở chương tŕnh
của hai cấp PT và ĐH, hoặc có một vài nội
dung chưa chuẩn xác trong sách giáo khoa của chương
tŕnh PT đều có thể tạo nên những ảnh
hưởng không tốt cho việc dạy và học Văn
ở bậc đại học. Chương tŕnh Ngữ
văn sách giáo khoa lớp 11 của Bộ Giáo dục và
đào tạo, NXB Giáo dục phát hành năm 2007, có đôi
điều gợi sự suy nghĩ cho chúng tôi khi bàn
đến kết quả dạy và học môn Văn
học Việt Nam hiện đại ở ĐH.
2. THỰC TRẠNG
VỀ VIỆC HỌC MÔN VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI
ĐỌAN 1900-1930 Ở ĐẠI HỌC
Những ai tâm huyết
với nghề dạy học và nặng ḷng với văn
chương chắc hẳn không khỏi lo lắng, ái
ngại trước kết quả không mấy khả quan,
v́ vẫn c̣n không ít sinh viên ngành Ngữ văn sắp ra
trường mà không thể trả lời được
các câu hỏi: “ Giai đoạn
nào được xem là giai đoạn giao thời trong
lịch sử phát triển của văn học Việt
Nam?”, “Mốc thời gian nào bắt đầu của
thời kỳ văn học Việt Nam hiện
đại?”. Nhiều sinh viên đă không chút đắn
đo khi xếp các tác giả Vũ Trọng Phụng, Ngô
Tất Tố, thậm chí cả Cao Bá Quát, Nguyễn Du vào
cùng giai đoạn với Tản Đà, Hồ Biểu
Chánh, Phan Bội Châu. Có sinh viên c̣n cho rằng Phan Bội Châu
là tác giả tiêu biểu của xu hướng văn
học lăng mạn hồi đầu thế kỉ.
Chuyện nhầm lẫn Tản Đà là người
mở đầu cho phong trào Thơ Mới vẫn “xảy ra” ở sinh viên
năm thứ tư! Những “lỗ
hổng”
kiến thức ấy sẽ âm thầm, lặng lẽ
như những con mọt đục
khoét dần kiến thức của người học
văn. Thoạt đầu tưởng chừng như
không đáng kể. Về sau nó có thể trở nên nghiêm
trọng, khó ai lường trước được. Sau
khi ra trường, với công việc giảng dạy, sinh
viên sẽ vô t́nh đem những “lỗ
hổng” ấy “đắp”
lên lớp tri thức non nớt đang trong thời ḱ phát
triển của bao thế hệ tiếp nối. Chính v́
thế, học tốt để đạt kết quả
tốt ở môn văn học Việt Nam hiện
đại không chỉ là một yêu cầu tất yếu
đối với sinh viên Ngữ văn lúc c̣n ngồi trên
ghế nhà trường, mà c̣n là một đ̣i hỏi có tính
lâu dài của ngành nghề.
Trước khi đi t́m
giải pháp cho vấn đề dạy tốt và học
tốt môn văn học Việt Nam hiện đại,
cụ thể là văn học giai đoạn 1900-1930, chúng
ta nên xác định những nguyên nhân dẫn đến
kết quả như đă nói trên.
3. ẢNH HƯỞNG
CỦA CHƯƠNG TR̀NH VÀ NỘI DUNG SÁCH GIÁO KHOA LỚP 11
ĐẾN VIỆC DẠY VÀ HỌC MÔN VĂN HỌC
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1900-1930 Ở ĐẠI HỌC
Theo chúng tôi, những kết
quả chưa tốt trong việc học môn văn học
Việt
Vấn đề chương tŕnh
và nội dung sách giáo khoa (SGK) là vấn đề cần
được quan tâm nhiều. Hiện nay giữa
chương tŕnh văn học Việt
Bên
cạnh đó, sư phiến diện ở nội dung, SGK
đă “vô t́nh” tạo ra cách học lệch cho sinh viên
đối với môn văn học Việt Nam hiện
đại. Những người biên soạn SGK chỉ
đề cập sơ lược về văn học
Quốc ngữ Nam bộ giai đoạn 1900-1930 , chưa
thể hiện hết những đóng góp của nó
đối với nền văn học hiện
đại. Chính Hồ Biểu Chánh và lực lượng
sáng tác khá đông đảo ở
Trong bài “Khái quát Văn học
Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách
mạng tháng Tám năm 1945”, tác giả SGK có
đề cập đến những đóng góp của nhà
văn Hồ Biểu Chánh. Tuy nhiên, đánh giá chưa xác
đáng, có phần phủ nhận công lao của một nhà
văn đă đóng vai tṛ quan trọng trong việc mở
đường cho sự phát triển của văn xuôi Quốc
ngữ, ở thể loại tiểu thuyết. Tác giả
SGK cho rằng:”Ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh có tính b́nh dân, đậm chất
Tác
giả SGK đă xem vấn đề mô phỏng tiểu
thuyết phương Tây ở tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh như một điểm hạn chế tiêu
biểu. Sách đă ghi:...”Nhưng nhiều tác phẩm
của ông c̣n mô phỏng cốt truyện của tiểu
thuyết phương Tây, . . .”( tr 88). Mô phỏng, đó
là việc làm phổ biến, mang tính tất yếu ở
những năm đầu thế kỷ XX, khi mà
người sáng tác c̣n đang t́m kiếm phương
thức sáng tác mới, th́ học theo phương Tây đă
là một phương cách được chọn lựa.
Hồ Biểu Chánh mô phỏng cốt truyện tiểu
thuyết phương Tây nhưng đă tái hiện thành công
h́nh ảnh xă hội
Không
chỉ có cái nh́n phiến diện, thiếu công bằng
về văn học Quốc ngữ Nam bô, về tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh, tác giả SGK c̣n
đưa ra những kết luận chưa thỏa
đáng khi đánh giá thành tựu của tiểu thuyết
văn xuôi Quốc ngữ giai đoạn từ đầu
thế kỷ XX đến năm 1930. Trang 88 của sách có
nêu: ”Trước năm 1930, tiểu thuyết văn xuôi
Quốc ngữ xuất hiện chưa nhiều.” . Lời
nhận định của SGK là khó có thể chấp
nhận được. V́ chưa ghi nhận đúng
những đóng góp quư báu của tiểu thuyết văn
xuôi Quốc ngữ ở giai đoạn trước !930.
Thực tế cho thấy, ngay trong buổi b́nh minh của
văn học Quốc ngữ, các tác phẩm thuộc
thể loại văn xuôi, chủ yếu là tiểu
thuyết và truyện ngắn đă xuất hiện
nhiều ở cả hai miền Nam, Bắc.
Nói
đến tiểu thuyết
Cùng
thời gian này miền Bắc cũng đă có nhiều
tiểu thuyết từng tạo tiếng vang trên văn
đàn hợp pháp đương thời: Giấc
mộng con – 1916 (Tản Đà), Cành hoa điểm tuyết
– 1921, Cuộc tang thương – 1923 (Đặng
Trần Phất), Kim Anh lệ sử - 1924 (Trọng
Khiêm), Quả dưa đỏ - 1925 (Nguyễn
Trọng Thuật), Tố Tâm –1925 (Hoàng Ngọc Phách), Cậu bé nhà quê – 1925
(Nguyễn Lân), ...
Và c̣n
những sáng tác khác của một số nhà văn trong giai
đoạn này mà chúng tôi chưa có điều kiện
kể hết như tác phẩm của Sơn Vương,
của Nguyễn Tử Siêu… nhưng với số
lượng tác phẩm nêu trên đă đủ thấy rằng
trước năm 1930 tiểu thuyết văn xuôi Quốc
ngữ xuất hiện không phải là ít.
Các tác
giả SGK không chỉ thiếu quan tâm đến văn
học Quốc ngữ
Ngoài ra,
theo chúng tôi, việc sắp xếp thứ tự tác
phẩm trong chương tŕnh chưa hơp lư. Chúng tôi
nhận thấy tác giả SGK có dụng ư giới thiệu
văn học giai đoạn 1900-1945 theo thể loại.
Văn xuôi được đưa vào giảng dạy và
học tập trước thơ. Điều này không có ǵ
để bàn lại. Nhưng tác giả SGK không chú ư
đến một điểm khác là đă giới thiệu
tác phẩm của giai đoạn 1930-1945 trước (Hai
đứa trẻ, Chữ người tử tù, Hạnh
phúc của một tang gia, Chí Phèo…), sau đó mới cho
học sinh được tiếp cận những tác
phẩm ra đời ở giai đoạn 1900- 1930 ( Xuất
dương lưu biệt, Hầu trời). Như
thế học sinh sẽ không nhận thấy
được sự vận động phát triển
của văn học theo lịch sử văn học.
Đồng thời, dễ dẫn đến sự
nhầm lẫn khi xác định các tác giả, tác phẩm
tiêu biểu cho mỗi giai đoạn. Khi nhận thấy sinh
viên ĐH c̣n những lỗ hổng kiến thức văn
học như đă tŕnh bày ở phần trên, chúng tôi không
khỏi băn khoăn về sự sắp xếp của
chương tŕnh SGK như đă nêu.
Những
điều chưa hợp lư của SGK lớp 11 như
chúng tôi đă tŕnh bày, học sinh phải tiếp nhận. Hành
trang kiến thức để các em bước lên
ĐH v́ thế có những điểm “bất ổn”;
tâm lư tiếp nhận tác phẩm văn chương ra
đời ở giai đoạn 1900-1930 đă bị tác
động không ít từ nội dung của SGK . Đó là
một trong những yếu tố ảnh hưởng
đến việc dạy và học môn văn học
Việt
Tuy nhiên, kết quả
của việc dạy và học môn văn học Việt
Đối với môn văn
học Việt
Vấn
đề đọc tác phẩm, đọc tư liệu
tham khảo rất cần thiết đối sinh viên
học Văn nhưng c̣n nhiều sinh viên chưa ư thức
được điều này. Do đó, tạo nên những
trở ngại lớn trong việc học, đồng
thời cũng gây khó khăn không ít cho giáo viên trong quá tŕnh giảng
dạy.Theo nhận xét của Nguyễn Thị Hồng Nam,
hiện nay phổ biến t́nh trạng “sinh viên không
đọc hoặc rất ít đọc tác phẩm, dù
chỉ là đọc để nắm nội dung tác
phẩm, chưa nói đến việc nghiên cứu các b́nh
diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm”.
V́ thế, đă h́nh thành thói quen “ăn theo, nói leo
những điều mà các nhà nghiên cứu, các giáo viên đă
viết và nói về tác phẩm chứ không thể hiện
được những khám phá của chính ḿnh về tác
phẩm“ [7, 56]. Hiện
nay, tài liệu tham khảo không c̣n khan hiếm để có
thể gây khó khăn cho sinh viên khi nghiên cứu. Sinh viên có
thể tham khảo tài liệu trên sách, báo, tạp chí và trên
Internet. Nhưng tất cả phụ thuộc vào ư thức
tự giác học tập của sinh viên.Ư thức tự
giác chưa cao, tất yếu kết quả học tập
sẽ chưa tốt.
Thế
nhưng, chương tŕnh và nội dung của SGK lớp 11
có những điểm chưa hợp lư như đă tŕnh
bày vẫn có thể xem là yếu tố đă tác
động mạnh đến tâm lư, nhận thức
người học, ảnh hưởng của nó
đối với việc dạy và học môn văn
học Việt Nam giai đoạn 1900-1930 ở ĐH không phải là ít.
4.
ĐỀ XUẤT
Trong khi
chờ đợi sự chia sẻ của các cấp có
trách nhiệm về SGK, với mong muốn những ǵ chưa
được hợp lí sẽ được điều
chỉnh để việc dạy và học Văn
đạt kết quả ngày càng cao hơn, chúng tôi nghĩ
đến việc tự khắc phục hạn chế,
trên cơ sở những ǵ có thể làm đuợc.
Quan điểm hiện nay về
vấn đề dạy và học ở trường
ĐH là lấy học tṛ làm trung tâm. Tṛ là người
chủ động, tích cực trong quá tŕnh học tập
để lĩnh hội kiến thức một cách
trọn vẹn và có sự sáng tạo. Tục ngữ có câu:
“Không Thầy đố mầy
làm nên”. Người Thầy vẫn luôn có một vai tṛ
và trách nhiệm nhất định trong quá tŕnh truyền
thụ kiến thức cho sinh viên. Với kết quả
chưa khả quan trong việc học môn văn học
Việt
Có lẽ lâu nay người dạy
chưa chú ư khơi gợi sự hứng thú cho sinh viên khi
học môn học này. Với một giai đoạn văn
học có đặc điểm kém hấp dẫn,
thiếu thú vị, thừa khô khan như giai đoạn
1900-1930, vấn đề khơi gợi hứng thú cho
người học trở nên cần thiết, phải
được chú ư nhiều. Khi đă có được
sự hứng thú, niềm say mê đối với môn
học th́ ư thức tự giác, chủ động trong
học tập mới có điều kiện phát huy tối
đa. Làm cách nào để tạo được hứng
thú cho sinh viên đối với môn học này? Đó là
một câu hỏi không đơn giản khi đi t́m
lời đáp. Hứng thú cho việc học môn học
cụ thể như môn văn học Việt Nam giai
đoạn 1900-1930, có thể được gợi lên
từ nhiều t́nh huống, hoàn cảnh, trường
hợp khác nhau. V́ vậy, đ̣i hỏi sự linh
động của người dạy trong quá tŕnh
giảng dạy môn học. Có thể nhiều khó khăn,
phức tạp nhưng đôi khi cũng hết sức
nhẹ nhàng, đơn giản.
4.1. Một chút ấn
tượng đẹp nhưng sâu đậm về tác
giả được học cũng có thể cuốn hút
sinh viên vào việc t́m ṭi, nghiên cứu. Ví dụ: Người
Thầy có thể đưa đến Tṛ những cảm
nhận đầu tiên về Phan Bội Châu thông qua tấm
gương yêu nước và nhiệt t́nh hoạt đông
cách mạng của ông. Một người đă từng
bôn ba nơi hải ngoại để t́m đường
cứu nước nhưng chí lớn không thành. Anh hùng
đành ôm hận! Cũng chính con người ấy đă
để lại cho nền văn học dân tộc
một khối lượng sáng tác khổng lồ: hơn
1000 tác phẩm! Sáng tác của Phan Bội Châu mang đặc
điểm “b́nh cũ
rượu mới” nhưng đă đưa đến
cho văn học Việt
4.2. Giúp sinh viên thấy
được ư nghĩa, mục đích của vấn
đề được học hay nghiên cứu là góp
phần khơi gợi sự hứng thú cho họ. Ví dụ:
Khi dạy đến văn học giai đoạn 1900-
1930, giáo viên cần nêu rơ đây là một giai đoạn
văn học mang tính giao thời. V́ thế có sự pha
tạp, lắp ghép các yếu tố cũ và mới ở
hầu hết các tác phẩm văn học, tuy mức
độ có khác nhau. T́m hiểu văn học giai
đoạn này sẽ nhận thấy trong những năm
tháng chuyển ḿnh sang thời ḱ hiện đại, văn
học Việt
4.3 Văn học là nhân học, học văn
chương cũng là học cách sống, cách làm
người, cách ứng xử cho phải đạo.
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đă mang đến cho
chúng ta những bài học đạo lí “vừa tầm”, nó có cái ǵ đó vừa thiết
thực, vừa gần gũi, vừa cụ thể.
Những bài học đạo lí luôn được Hồ
Biểu Chánh đặt vào từng cảnh ngộ cụ
thể, nảy sinh từ cuộc sống đời
thường, quanh ta. Cho nên nó thiết thực với
mọi người. Nó không chỉ là cái của hôm qua, mà c̣n
là cái của hôm nay cần được tiếp tục
suy ngẫm. Khi đă được nhận ra ư nghĩa
của vấn đề như đă nêu, chắc hẳn
những định kiến, những đánh giá chưa
đúng về tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh sẽ
không c̣n, nhường chỗ cho những thắc mắc,
suy nghĩ xoay quanh tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.
Sinh viên sẽ có được nhu cầu t́m hiểu
về tác phẩm của Hồ Biểu Chánh để
được giải tỏa “hiếu ki” của
ḿnh. Như thế sinh viên bắt đầu có
được hứng thú.
Người dạy rất cần
có sự kiên tŕ và kiên quyết trong quá tŕnh giảng dạy.
Những biểu hiện chưa ủng
hộ từ phía sinh viên trong giờ học dễ
tạo cảm giác bất măn cho người dạy. Đó
cũng là một trong những lư do khiến việc
giảng dạy môn học
chưa mang lại kết quả như mong muốn.
Dạy văn là dạy cái hay cái
đẹp. Thế nhưng, theo nhận định
của Lê Tiến Dũng th́ “thực tiễn giảng
dạy văn chương Việt Nam hiện đại
ở phổ thông cũng như đại học hiện
nay đang có t́nh trạng người giảng dạy ít chú
ư đến phân tích cái hay, cái đẹp của văn
chương, mà thường thiên về những nội
dung xă hội, quan điểm lập trường.” [7,23]. Phải chăng
đây cũng là một trong những yếu tố làm
giảm hứng thú học tập cho sinh viên! Đối
với môn văn học Việt
Đă
trót hở hang khôn khép lại
Lại
c̣n e nỗi chị em ghen.
Tản Đà đă thổi
vào thơ Việt
5. KẾT LUẬN
Tóm lại, để
dạy và học tốt môn văn học Việt
Sự quan tâm nhiều
hơn đến mối liên hệ giữa các bậc
đào tạo khi biên sọan chương tŕnh giảng
dạy sẽ là điều kiện thuận lợi để
tất cả chúng ta có thể hoàn thành tốt việc
giảng dạy và học tập. SGK là tài liệu quan trọng
, cần thiết, được sử dụng như
một công cụ tối ưu trong suốt quá tŕnh
dạy và học ở PT. Do đó, chúng tôi mong chờ ở
đó những nội dung thật chuẩn xác, thể
hiện cái nh́n hợp lư về các vấn đề
muốn truyền thụ cho học sinh, làm nền tảng
vững chắc cho sinh viên khi bước lên ĐH.
Đồng thời, SGK càng có sự hoàn chỉnh, hợp lí
về nội dung, chương tŕnh sẽ càng tạo
điều kiện thuận lợi cho việc dạy và
học ở ĐH.
-------------
Tài liệu tham
khảo:
1.
Nguyễn Duy B́nh, Dạy
văn, dạy cái hay cái đẹp, Nxb Giáo dục, 1983.
2.
Trần Thanh B́nh – Lê
Xuân Lít (tuyển chọn), Về một hướng
dạy và học văn, Sở Giáo dục Nghĩa B́nh,
1987.
3.
Trần Đ́nh Hượu- Lê Chí
Dũng,
Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900
– 1930, NXB Đại học & THCN, 1980.
4.
Thanh Lăng, Bảng lược đồ văn
học Việt
5.
Phan Trọng Luận (Chủ
biên), Phương pháp dạy học Văn, Nxb Giáo
dục 1988.
6.
Khoa Sư phạm, Kỉ
yếu Hội nghị KH và cải tiến phương pháp
dạy học, Trường Đại học
Cần Thơ, 2001.
7.
Trường Đại học
Cần Thơ, Kỉ yếu Hội thảo KH
Đổi mới nội dung và phương pháp học
Văn học Việt Nam hiện đại trong
trường Đại học, năm 2007.
8.
Bích Thu, Tiểu thuyết Việt
9.
Cù Đ́nh Tú, Phong cách học
và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, HN, 2001.
----------
Nguồn:
(Bài in trong sách “Đổi mới
dạy văn và học văn”- Hội Nghiên cứu &
Giảng dạy Văn học Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb
Văn hoá Sài G̣n, tr 179 – 195)